Tình trạng khai thác, tiêu thụ xăng dầu tại Việt Nam
Năm ngoái, trong khi nguồn cung xăng dầu trong nước mới đáp ứng được 70%, Việt Nam vẫn phải xuất đi 3,1 triệu tấn dầu thô rồi nhập về gần 10 triệu tấn dầu.
Khai thác dầu thô ngày một giảm
Năm 2021, Việt Nam khai thác gần 11 triệu tấn dầu thô, trong đó 9,1 triệu tấn từ các mỏ trong nước, và gần 1,9 triệu tấn khai thác từ các mỏ nước ngoài mà PVN hợp tác, đầu tư. 6 năm qua, sản lượng khai thác trong nước liên tục giảm, nếu tính bình quân, mỗi năm sản lượng giảm một triệu tấn.
Phần giảm chủ yếu do khai thác trong nước giảm mạnh. Khai thác dầu thô ngày càng khó khăn hơn trước do việc gia tăng trữ lượng (hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí tại các bể/mỏ mới để bù vào sản lượng khai thác hàng năm) giảm đáng kể. Ví dụ, nếu quy đổi ra dầu, gia tăng trữ lượng đạt tới 40,5 triệu tấn năm 2015 thì ba năm sau còn 12 triệu và năm 2021 là 4,6 triệu tấn.
Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Công Thương, dầu khí mới phát hiện cũng đang có xu hướng giảm. Nếu giai đoạn 2011-2015 có 24 phát hiện dầu khí mới thì 5 năm sau đó chỉ có 7, tại các mỏ Kèn Bầu, Sói Vàng, Mèo Trắng Đông...
Các hợp đồng dầu khí được ký mới hay việc đầu tư nguồn lực cho tìm kiếm, thăm dò cũng giảm so với thời kỳ trước. Theo Bộ Công Thương, chỉ có 3 hợp đồng được ký mới trong 2016 - 2020, giảm 7 lần so với trước đó 5 năm.
Tại các mỏ dầu khí chủ lực (Bạch Hổ, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng...), việc khai thác đang ở giai đoạn giảm sản lượng hoặc độ ngập nước cao, tiềm ẩn rủi ro. Còn các mỏ mới tìm kiếm được gần đây quy mô nhỏ, nằm ở các khu vực địa chất, địa lý phức tạp, vùng nước sâu khó tiếp cận và cần đầu tư lớn, rủi ro cao.
Vì sao Việt Nam xuất khẩu dầu thô rồi lại nhập về?
Hai phần ba lượng dầu thô khai thác trong nước dành để cung ứng tại thị trường nội địa, cho nhà máy lọc dầu Dung Quất - đơn vị có công suất thiết kế sản xuất 6,5 triệu tấn một năm. Phần còn lại được xuất bán.
Năm ngoái, Việt Nam xuất đi 3,1 triệu tấn dầu thô, nhưng cũng nhập về 9,9 triệu tấn để lọc. Với sản lượng dầu thô nhập về, chủ yếu cũng sử dụng cho hai nhà máy lọc dầu là Nghi Sơn và Dung Quất, trong đó nhà máy Nghi Sơn sử dụng 100% dầu thô nhập khẩu.
Điều này cũng lý giải vì sao từ năm 2018, thời điểm nhà máy này vận hành thương mại, lượng dầu thô nhập khẩu của Việt Nam hàng năm tăng hơn gấp đôi.
Lý do khiến Việt Nam là quốc gia khai thác dầu thô, xuất khẩu nhưng vẫn phải nhập dầu thô về lọc, theo các chuyên gia, chủ yếu để tối ưu hóa kỹ thuật, kinh tế và hiệu quả hoạt động của các nhà máy lọc dầu.
Thực tế, dầu thô có nhiều chủng loại, đặc tính khác nhau, như dầu ngọt, dầu nhẹ, dầu nặng... Mỗi loại dầu sẽ sản xuất ra các sản phẩm thành phẩm như xăng, dầu diesel, dầu hoả, mazut... và các sản phẩm hoá dầu khác.
Mỗi nhà máy lọc dầu được thiết kế công nghệ sử dụng loại dầu thô khác nhau. Chẳng hạn, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn sử dụng 100% dầu thô nhập khẩu từ vùng vịnh, loại dầu khai thác trên sa mạc, đá phiến.
Còn Nhà máy lọc dầu Dung Quất được thiết kế để tiêu thụ dầu thô khai thác từ mỏ Bạch Hổ. Tuy nhiên, vài năm qua lượng khai thác dầu từ mỏ này ngày càng sụt giảm, trong khi số dầu khai thác từ các mỏ khác lại không tối ưu hoá với công nghệ của nhà máy, nên họ phải nhập thêm dầu thô phù hợp để về lọc. Nhà máy này cũng thử nghiệm được việc pha dầu thô nhập từ nước ngoài với giá thấp (tỷ lệ pha 20%) vẫn cho ra sản phẩm tốt, đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra, việc nhập khẩu này trong nhiều trường hợp có lợi về giá so với mua dầu thô từ nguồn trong nước. Việc tăng tỷ lệ dầu nhập khẩu đưa vào chế biến giúp nhà máy này đa dạng nguồn nguyên liệu sản xuất trong bối cảnh nguồn dầu thô từ mỏ Bạch Hổ và dầu nội địa khác ngày càng suy giảm sản lượng.
Dầu thô của Việt Nam khai thác, nhất là từ mỏ Bạch Hổ, là loại dầu ngọt, lượng lưu huỳnh thấp (thường <0,5%), nên có thể xuất bán với giá cao hơn nguồn dầu từ khu vực Trung cận Đông.
Nhìn chung, việc xuất khẩu dầu thô đem lại hiệu quả kinh tế, nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
Bốn tháng đầu năm nay, PVN khai thác hơn 3,6 triệu tấn dầu thô. Nhờ giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng, khoản thu ngân sách từ xuất bán dầu thô tháng 4 đạt 6.600 tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng đầu năm, khoản này đạt 24.100 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi cùng kỳ và bằng 85% dự toán năm.
"Trong cơ chế thị trường, nếu bán được dầu thô lúc giá cao và mua lại được lúc giá tốt, vừa đóng góp nguồn thu cho ngân sách, vừa tối ưu hoá kinh doanh của doanh nghiệp. Hoặc lúc dư thừa mà không sử dụng được thì phải bán đi, không trữ được... Việc khai thác rồi vừa xuất bán, vừa nhập khẩu dầu thô về chế biến là bình thường ", một chuyên gia nhận xét.
Xăng dầu tiêu thụ trong nước lấy từ đâu?
Việt Nam hiện có hai nhà máy lọc dầu là Dung Quất và Nghi Sơn, cung ứng mỗi năm 10-13 triệu m3, tấn xăng, dầu thành phẩm các loại. Hai nhà máy này hiện cung ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu dùng nhu cầu xăng, dầu trong nước, trong đó tỷ trọng cung ứng của Nghi Sơn khoảng 35%, có thời điểm lên tới 40%.
Ngoài ra còn một số nhà máy khí ngưng tụ (condensate) như PVOil Phú Mỹ, Đông Phương, Sài Gòn Petro... có công suất sản xuất trên 600.000 m3, tấn một năm.
Với nhu cầu tiêu dùng cả nước mỗi năm 20,5-21 triệu m3, tấn, nguồn cung từ sản xuất trong nước đáp ứng 70% cầu tiêu dùng cả nước, nên 30% cầu còn lại vẫn phải nhập khẩu xăng dầu thành phẩm từ các nước.
Các thị trường nhập khẩu xăng dầu thành phẩm chủ yếu của Việt Nam là Đông Nam Á (Singapore, Malaysia, Thái Lan...), Hàn Quốc, Trung Quốc. Đây là những thị trường Việt Nam có thể tận dụng ưu đãi thuế nhập khẩu từ các hiệp định thương mại tự do đã ký.
Bình quân 6 năm qua (2016-2020), mỗi năm Việt Nam nhập khẩu 11,5 triệu m3, tấn xăng dầu thành phẩm các loại. Xu hướng nhập khẩu giảm đáng kể vào năm 2021, với 6,9 triệu m3, tấn khi nguồn cung ứng từ các nhà máy lọc dầu trong nước tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, đầu năm 2022, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn cắt giảm công suất vì khó khăn tài chính khiến sản lượng xăng dầu nhập khẩu tăng lên do phải bù đắp nguồn cung thiếu hụt từ nhà máy này. Dự kiến năm nay lượng xăng dầu thành phẩm nhập khẩu khoảng 7,4 triệu m3, tấn, tăng khoảng 1 triệu tấn so với kế hoạch trước đó.
Trong khi nhập về một phần ba tổng nhu cầu tiêu thụ cả nước, Việt Nam cũng xuất khẩu bình quân hơn 2 triệu tấn các sản phẩm xăng dầu, mà chủ yếu là sản phẩm từ hoá dầu, đi các nước. Thị trường nhập khẩu các mặt hàng này lớn nhất từ Việt Nam là Campuchia, chiếm gần 30% tổng lượng xuất khẩu. Kế đến là Singapore 20%, Trung Quốc hơn 10%…
Nguồn: vnexpress.net